Sản xuất VietGAP: Nâng cao giá trị chè Việt
Thay đổi tư duy và hành động trong sản xuất chè hướng đến sự phát triển bền vững là mục tiêu Diễn đàn “Các giải pháp sản xuất chè an toàn, nâng cao giá trị gia tăng” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên tổ chức hôm nay (10/6), tại Thái Nguyên.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Quý Dương – Phó Cục trưởng Cục BVTV (BVTV) cho thấy, có tới 49% nông dân các vùng trồng chè được hỏi thì đều cho biết có sử dụng thuốc với nồng độ cao hơn hướng dẫn, 64% nông dân sử dụng hỗn hợp 2 loại thuốc khi phun và có 14% nông dân trộn 3 loại thuốc khi phun trong khi bà con không hề biết việc phối trộn này sẽ làm tăng nồng độ thuốc lên nhiều lần; gần 50% nông dân phun trên 7 lần/vụ, có hộ phun tới 4 lần/tháng, gây lãng phí trong sử dụng thuốc, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng lớn tới thiên địch và mất an toàn thực phẩm cho sản phẩm chè. Cùng với tình trạng sử dụng thuốc tùy tiện, nồng độ cao hơn quy định, thuốc ngoài danh mục được phép sử dụng trên chè là nguyên nhân chính dư lượng thuốc trên sản phẩm chè cao như hiện nay. Đây là lý do khiến nhiều lô hàng chè xuất khẩu của Việt Nam bị đối tác cảnh báo hoặc trả về.
Để nâng cao chất lượng chè xuất khẩu, nhiều địa phương đã chú trọng đến phát triển các vùng sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP. Như tại tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng và hỗ trợ nông dân đầu tư thâm canh, trong đó áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) từ năm 2009. Hiện, toàn tỉnh có trên 80% diện tích chè tại các vùng sản xuất chè tập trung sản xuất theo hướng an toàn, áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), trong đó có 46 mô hình chè được chứng nhận VietGAP với tổng diện tích khoảng 600ha (1.694 hộ tham gia), sản lượng chè búp tươi đạt khoảng 6.800 tấn
Tuy nhiên, trên thực tế, theo đánh giá của các chuyên gia, việc áp dụng VietGAP việc phát triển các mô hình sản xuất chè an toàn trên nhiều địa bàn vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do một số vùng diện tích trồng chè manh mún nên gặp nhiều hạn chế trong công tác hướng dẫn thực hiện theo đúng quy trình sản xuất. Nhận thức của người tiêu dùng về các sản phẩm của VietGAP còn hạn chế. Chưa định hướng chính xác về nhu cầu, số lượng và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chưa có nhiều doanh nghiệp đủ năng lực tham gia vào chuỗi sản xuất chè. Thanh, kiểm tra việc sử dụng thuốc BVTV trên cây chè mới chỉ thực hiện được tại các mô hình sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, vùng nguyên liệu của các công ty chè. Vẫn còn một bộ phận người sản xuất chưa nhận thức đầy đủ về an toàn thực phẩm, chạy theo năng suất, chưa chú trọng thời gian cách ly sau khi phun thuốc BVTV, bón phân.
Ông Nguyễn Đức Mạnh – Trưởng phòng Cây Công nghiệp- Cây ăn quả (Cục Trồng trọt) cho rằng, việc chưa gắn giữa chế biến với sản xuất nguyên liệu là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến diện tích sản xuất chè an toàn chưa được nhân rộng. Nhiều cơ sở chế biến chè không có vùng nguyên liệu, thường không quan tâm đến kiểm soát chặt chất lượng nguyên liệu đầu vào, đặc biệt kiểm soát dư lượng thuốc BVTV trên chè, giá cả thu mua không hợp lý nên không khuyến khích người sản xuất coi trọng chất lượng nguyên liệu. Tình trạng thu gom nguyên liệu qua nhiều trung gian không những làm tăng giá nguyên liệu đầu vào mà còn kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Phan Huy Thông – Giám đốc Trung tâm khuyến nông quốc gia nhấn mạnh: Sản xuất VietGAP thực chất là thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, đây cũng là giải pháp giúp bà con trồng chè nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Để nhân rộng mô hình sản xuất chè VietGAP, ông Thông cho rằng, cần siết chặt lại cơ sở chế biến chè theo hướng những cơ sở không có vùng nguyên liệu thì dứt khoát không cho chế biến. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp cần kiểm soát việc tuân thủ quy định của nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó có quy định về kinh doanh thuốc BVTV theo hướng nếu phát hiện cơ sở kinh doanh bán loại thuốc BVTV ngoài danh mục sẽ xử lý rất nặng. Song song với đó là việc nâng cao nhận thức của người dân, công khai các loại thuốc BVTV được sử dụng trên chè một cách rộng rãi và dễ hiểu để cho bà con dễ nhớ và khi tìm mua thì không mua phải các loại thuốc không an toàn.
Ngoài ra, ông Thông cũng kiến nghị, nhà nước cần giảm thiểu các tiêu chí VietGAP không phù hợp, kéo dài thời gian có hiệu lực chứng nhận VietGAP. Cùng với khuyến khích đầu vào cần tăng cường hỗ trợ đầu ra để bà con yên tâm với sản xuất VietGAP.