Làm chủ thiết bị toàn bộ cơ hội phát triển cho nhiều ngành công nghiệp trọng điểm
Làm chủ thiết bị toàn bộ là yếu tố then chốt tạo ra chuỗi giá trị trong các ngành công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng vì chỉ khi làm chủ từ khâu thiết kế đến chế tạo, tích hợp các thiết bị toàn bộ của một nhà máy thì chúng ta mới chủ động trong việc sản xuất, đặt hàng các thiết bị phụ trợ kèm theo hệ thống, mà thông thường các thiết bị phụ trợ này chiếm khoảng 30÷40% giá trị thiết bị đầu tư.
Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho quốc gia và cũng là ngành có mối liên hệ, gắn kết chặt chẽ, mật thiết nhất với các khu vực kinh tế khác là nông nghiệp và dịch vụ. Sự gắn kết này được tổ chức theo chuỗi giá trị - là chuỗi của các hoạt động mà một sản phẩm phải đi qua tuần tự các hoạt động đó để chuyển hoá từ một ý tưởng thành một sản phẩm cụ thể, và tại mỗi hoạt động sản phẩm đó đi qua, giá trị của sản phẩm được tăng thêm.
Nội địa hóa thiết bị cơ khí thủy công, thiết bị nhà máy nhiệt điện than thay thế hàng nhập khẩu
Thiết bị cơ khí thuỷ công: Đối với các nhà máy thuỷ điện, nếu như trước đây vẫn phải nhập khẩu các thiết bị cơ khí thuỷ công thì đến nay toàn bộ phần này có thể do các doanh nghiệp cơ khí trong nước đảm nhận, kể cả đối với các nhà máy thuỷ điện lớn như Thuỷ điện Sơn La có công suất đến 2.400 MW. Các Liên danh cơ khí trong nước đã chế tạo và cung cấp các thiết bị cơ khí thuỷ công cho các nhà máy thuỷ điện với tổng trọng lượng thiết bị lên tới hàng chục ngàn tấn.
Đối với thiết bị nhà máy nhiệt điện than: Với định hướng của Chính phủ tại Quyết định số 1791/QĐ-TTg đã giúp ngành cơ khí trong nước làm chủ được việc thiết kế, chế tạo, lắp đặt và vận hành một số hạng mục thiết bị phụ trợ trọn bộ (BOP) cho nhà máy nhiệt điện đốt than gồm: hệ thống cung cấp than, hệ thống thải tro và xỉ, hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống nước làm mát tuần hoàn, hệ thống thải khói, trạm phân phối và máy biến áp chính, hệ thống phòng cháy chữa cháy.
Cần tuân thủ chế tài đối với các chủ thầu dự án EPC triệt để thực hiện nội địa hóa
Mặc dù đã làm chủ được thiết kế, chế tạo các hạng mục BOP ở trên, tuy nhiên việc triển khai áp dụng tới các dự án nhà máy nhiệt điện than lại gặp rất nhiều khó khăn do:
+ Nhà nước chưa có chế tài buộc các chủ đầu tư phải nghiêm túc thực hiện QĐ1791, các chủ đầu tư vẫn thực hiện theo cơ chế tổng thầu EPC trọn gói, không yêu cầu các nhà thầu EPC phải nội địa hóa các thiết bị nêu tại QĐ1791.
+ Do tình hình huy động vốn đầu tư các dự án nhà máy nhiệt điện cần một lượng vốn lớn, nên các chủ đầu tư trong nước thường áp dụng thu xếp dự án hình thức ECA. Như vậy, chỉ có nhà thầu nước ngoài mới đáp ứng được tiêu chí này và họ sẽ bao trọn gói từ thiết kế nhà máy, mua sắm thiết bị, xây dựng nhà máy. Nhà thầu EPC nước ngoài chỉ thuê lại nhà thầu trong nước thực hiện một phần công việc rất nhỏ và đơn giản như kết cấu thép, lắp đặt với giá thấp hơn giá dự thầu rất nhiều, giá trị phần công việc này thường chỉ đạt 2-5% giá trị gói thầu.
+ Theo các quy định về đấu thầu hiện hành, sau giai đoạn đánh giá về kỹ thuật thì giai đoạn xét về tài chính thực chất là lựa chọn các nhà thầu có giá bỏ thầu giá rẻ. Giá của các nhà thầu Trung Quốc thường rẻ hơn nếu so sánh với các nhà thầu trong nước vì họ có sự ưu đãi từ chính sách thuế cho thiết bị xuất khẩu (nhà thầu Trung Quốc dược hưởng ưu đãi thuế xuất khẩu là 11%).
Làm chủ công nghệ thiết bị toàn bộ đối với nhiệt điện, xi măng, năng lượng tái tạo,… giảm nhập siêu
Đối với nhà máy nhiệt điện khí: hầu hết các dự án nhà máy nhiệt điện khí tại Việt Nam đều do nước ngoài cung cấp theo hình thức tổng thầu EPC. Trong nước Lilama cũng đã được chỉ định một số dự án như Cà Mau 1&2 (1500 MW), TBKHH Nhơn Trạch 1 (450 MW), Nhơn Trạch 2 (750MW), tuy nhiên do không làm chủ được phần thiết kế và công nghệ chế tạo các thiết bị chính nên hầu hết các thiết bị thuộc nhà máy vẫn phải mua từ nước ngoài.
Do vậy, đây là một thị trường rất lớn và việc nghiên cứu để nội địa hóa, tiếp nhận chuyển giao công nghệ các sản phẩm trong lĩnh vực nhà máy điện sẽ tạo được công ăn việc làm ổn định, tạo dựng được thị trường dài hạn cho ngành cơ khí trong nước.
Đối với lĩnh vực năng lượng tái tạo: Theo quy hoạch Điện VII điều chỉnh đưa ra triển vọng và đặt kế hoạch sản xuất được khoảng 850 MW điện mặt trời vào năm 2020, nâng lên 4.000 MW vào năm 2025 và 12.000 MW vào năm 2030. Ngoài ra, tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến 2030 tầm nhìn đến 2050 đã nâng tỷ lệ xử lý chất thải thành phố cho mục đích năng lượng từ mức không đáng kể hiện nay lên 30% vào năm 2020, khoảng 70% vào năm 2030 và hầu hết được tận dụng cho mục đích năng lượng vào năm 2050. Thực trạng các dự án năng lượng mới và tái tạo hiện nay trong nước đều được thực hiện bởi các nhà thầu nước ngoài theo hình thức EPC dẫn đến tỷ trọng thực hiện của các nhà thầu trong nước rất thấp, dưới 10% ngoại trừ dự án Điện mặt trời Đa Mi 47,5 MW do Viện nghiên cứu Cơ khí thực hiện có tỷ lệ nội địa hóa hơn 50%. Do vậy, nếu chúng ta nghiên cứu làm chủ được công nghệ thiết bị toàn bộ cho các dự án này sẽ tạo là một mảng công việc tốt tạo ra nguồn thu cho các doanh nghiệp cơ khí ít nhất 25 năm tới, góp phần giảm giá trị nhập siêu.
Đối với nhà máy bô xít: Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã hoàn thành đầu tư hai dự án alumin đầu tiên tại Việt Nam là Lâm Đồng và Nhân Cơ. Hiện nay hai nhà máy alumin đầu tiên của Việt Nam đã được đưa vào vận hành thương mại và đạt năng suất thiết kế. Viện Nghiên cứu Cơ khí (Viện) là đơn vị đã thực hiện các công tác lập Dự án đầu tư, thiết kế cơ sở, tư vấn quản lý và giám sát xây dựng hai dự án khai thác và chế biến quặng bauxite (Nhà máy Alumin Lâm Đồng và Nhà máy alumin Nhân Cơ). Hiện tại trong nước chưa thực hiện được hệ thống thiết bị toàn bộ nào cho nhà máy bô xít.
Thiết bị cho ngành xi măng và vật liệu xây dựng:
+ Thiết bị cho ngành xi măng: cơ khí trong nước đã thiết chế tạo toàn bộ dây chuyền thiết bị đồng bộ cho nhà máy xi măng công suất đến 800.000 tấn/năm. Tổng công ty Lắp máy Việt Nam đã tham gia chế tạo thiết bị cho Nhà máy xi măng Sông Thao với tỷ lệ nội địa hóa đạt 70% về khối lượng, 40% về giá trị. Tổng công ty Cơ khí xây dựng đã chế tạo thành công thiết bị phi tiêu chuẩn và hệ thống băng tải cho Nhà máy xi măng Sông Gianh và chế tạo, lắp đặt thiết bị cơ điện cho Nhà máy xi măng Đồng Bành. Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp đã chế tạo các trạm trộn bê tông xi măng công suất từ 120 đến 250 m3/giờ. Tổng công ty Cổ phần xây dựng Công nghiệp Việt Nam đã chế tạo thiết bị Nhà máy xi măng Thái Nguyên với tỷ lệ nội địa hóa đạt 74% về khối lượng.
+ Thiết bị cho ngành vật liệu xây dựng: cơ khí trong nước đã thiết kế, chế tạo dây chuyền thiết bị cán thép xây dựng công suất đến 30.000 tấn/năm, dây chuyền sản xuất gạch AAC đồng bộ công suất 100.000 m3/năm, sản xuất các loại vật liệu xây dựng không nung với 8 dòng sản phẩm gạch, ngói mang thương hiệu Secoin được tiêu thụ trên 37 quốc gia tại khắp các Châu lục.
Các thiết bị toàn bộ khác:Trong nước đã sản xuất được dây chuyền thiết bị đồng bộ cho nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía/ngày; dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy chế biến mủ cao su công suất 6.000 tấn/năm.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đang xây dựng Đề án về “Thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ để phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị trong các ngành công nghiệp ưu tiên: công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí”. Viện Nghiên cứu Cơ khí cũng đang tích cực tham gia các ý kiến để hoàn thiện Đề án này. Viện mong muốn thông qua VAMI có các ý kiến về các cơ chế, chính sách để ưu tiên phát triển mảng thiết bị đồng bộ tương ứng với các lĩnh vực công nghiệp cụ thể gửi tới Bộ Công Thương tập hợp vào Đề án. Để giảm khó khăn cho các doanh nghiệp cơ khí trong Hiệp hội, kính đề nghị VAMI kiến nghị Chính phủ mở rộng gói hỗ trợ theo Nghị định 92/2021/NĐ-CP và các gói hỗ trợ khác cho cả các doanh nghiệp có doanh thu trong kỳ tính thuế >200 tỷ đồng.