“Tâm chấn” Đông Á trong giai đoạn bùng nổ thương mại điện tử lịch sử
Đông Á đang trong giai đoạn bùng nổ thương mại điện tử lịch sử. Các giao dịch hàng hóa và dịch vụ trực tuyến đã tăng nhanh chóng trong thời gian Covid-19.
Vào năm 2022, Philippines, Indonesia và Việt Nam dự kiến sẽ đứng trong top 5 thương mại điện tử phát triển nhanh nhất các thị trường trên thế giới. Trung Quốc vẫn là thị trường thương mại điện tử từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng lớn nhất trong khu vực, với hơn 50% doanh số bán lẻ được thực hiện trực tuyến.
Người mua và người bán trực tuyến ở Đông Á được thúc đẩy bởi một hệ sinh thái sôi động của các dịch vụ thương mại kỹ thuật số, chẳng hạn như thị trường thương mại điện tử, thanh toán kỹ thuật số và dịch vụ fintech, nền tảng hậu cần và cái gọi là 'siêu ứng dụng' cung cấp cho người dùng các dịch vụ bao gồm giao hàng, mua sắm và gọi xe.
Các doanh nghiệp đang nhận ra cơ hội mà thương mại điện tử mang lại, gắn kết các cửa hàng trực tuyến và thị trường mới để tiếp cận hàng trăm triệu người mua toàn cầu. Ở các nước ASEAN, 2/3 số doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ sử dụng nền tảng mua sắm trực tuyến Shopee, khoảng một nửa sử dụng Lazada và hơn 1/4 sử dụng Amazon.
Các công ty cỡ vừa và lớn hơn đang sử dụng rộng rãi các thị trường toàn cầu như Amazon và Alibaba cũng như các nền tảng trực tiếp đến người tiêu dùng như Shopify. Điều này đã chuyển sang thương mại điện tử xuyên biên giới và thương mại kỹ thuật số. Hơn 60% doanh nghiệp siêu nhỏ bán hàng trên thị trường trực tuyến toàn cầu hiện đã xuất khẩu, với một nửa trong số đó bắt đầu xuất khẩu nhờ thương mại điện tử. Người bán trực tuyến - nhà xuất khẩu cũng có nhiều khả năng xuất khẩu sang nhiều thị trường ASEAN và ngoài khu vực hơn người bán trực tiếp.
Sự gia tăng của thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng song song với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử xuyên biên giới khi người bán là doanh nghiệp tìm cách tạo ra trải nghiệm đa kênh cho các nhà quản lý mua hàng của doanh nghiệp. Xuất khẩu dịch vụ kỹ thuật số từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp cũng đang tăng lên, ở mức 16% mỗi năm từ năm 2007 đến năm 2020 chỉ trong khu vực ASEAN, vượt xa tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại dịch vụ thương mại. Do đó, các nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của khu vực được tích hợp sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu và châu Á.
Việc các chính phủ khu vực áp dụng các chính sách và thông lệ có lợi cho thương mại điện tử — chẳng hạn như luật thanh toán điện tử, các chương trình xúc tiến xuất khẩu điện tử và tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trực tuyến - đã thúc đẩy thêm sự gia tăng thương mại điện tử. Các chính phủ trong khu vực từ lâu đã theo đuổi các quy trình thương mại điện tử khu vực trong bối cảnh ASEAN và APEC cùng với các hiệp định thương mại tự do mang tính đột phá nhằm hợp nhất các nền kinh tế khu vực với các đối tác khu vực khác để thúc đẩy thương mại kỹ thuật số.
Một số trong số đó bao gồm Hiệp định Thương mại Kỹ thuật số Mỹ - Nhật Bản, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Kinh tế Kỹ thuật số và Hiệp định Đối tác Kinh tế Kỹ thuật số Singapore - Australia.
Tuy nhiên, các chính phủ ở Đông Á còn nhiều việc phải làm để chuyển làn sóng áp dụng thương mại điện tử này thành các cơ hội thương mại kỹ thuật số cho các công ty và nền kinh tế trong khu vực. Hơn một phần ba số người bán ở Đông Nam Á cho biết họ đang vật lộn với bối cảnh quy định kỹ thuật số khác nhau của khu vực.
Sự phức tạp của quyền riêng tư dữ liệu quốc gia, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định kỹ thuật số khác đang khó đáp ứng chỉ trong một thị trường, chứ chưa nói đến nhiều thị trường. Các công ty cũng lo lắng về khả năng bản địa hóa dữ liệu làm suy yếu thương mại điện tử xuyên biên giới. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà xuất khẩu - người bán trực tuyến sử dụng rộng rãi dữ liệu về khách hàng và hoạt động nước ngoài để nâng cấp dịch vụ và hợp lý hóa việc bán hàng.
Những trở ngại này cho thấy sự cần thiết phải có một chương trình chính sách khu vực rõ ràng để thúc đẩy thương mại kỹ thuật số. Các nền kinh tế khu vực cần thúc đẩy sự hội tụ nhiều hơn giữa các quy định kỹ thuật số quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nhỏ hơn tuân thủ các quy định quốc gia trên thị trường trực tuyến.
Việc các nền kinh tế khu vực gia nhập sâu hơn vào CPTPP và các hiệp định thương mại khác với các quy tắc ràng buộc về thương mại điện tử có thể thúc đẩy sự thống nhất quy định và ràng buộc mỗi nền kinh tế vào các quy tắc tiêu chuẩn hóa cho thương mại kỹ thuật số. Việc các nền kinh tế ASEAN dự định đàm phán Hiệp định khung về kinh tế kỹ thuật số là một bước đi tích cực có khả năng hướng tới các quy tắc ràng buộc và mạnh mẽ nhằm thúc đẩy thương mại điện tử.
Sự đổi mới về thanh toán của Đông Á vẫn chưa thể sánh được với khả năng tương tác của hệ thống thanh toán. Khoảng một phần ba các công ty trong khu vực báo cáo doanh số xuất khẩu trực tuyến bị mất do họ không thể chấp nhận thanh toán từ khách hàng nước ngoài. Chi phí hậu cần xuyên biên giới tăng cao, việc điều phối hậu cần giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, các chứng từ thương mại trên giấy đi kèm và các khoản thanh toán đầu cuối cũng đặt ra những thách thức đáng kể đối với các doanh nghiệp.
Các công ty Đông Á tham gia vào thương mại kỹ thuật số cũng sẽ yêu cầu quyền truy cập linh hoạt vào dữ liệu về hoạt động và khách hàng của họ cũng như khả năng lưu trữ, xử lý và phân tích dữ liệu hiệu quả về chi phí. Tuy nhiên, báo cáo năm 2022 của Đại diện Thương mại Mỹ về các rào cản thương mại nước ngoài nêu bật một số thực tiễn ở các quốc gia như Indonesia và Trung Quốc đi ngược lại nguyện vọng về các luồng dữ liệu tự do. Các điều khoản hợp đồng mẫu của ASEAN về Luồng dữ liệu xuyên biên giới là một bước đi đúng hướng để thúc đẩy truyền dữ liệu xuyên biên giới có trật tự.
Các nền kinh tế Đông Á có thể cân nhắc việc tham gia Hệ thống Quy tắc Bảo mật Xuyên Biên giới APEC, hệ thống này cân bằng các mục tiêu về khả năng truy cập dữ liệu với tính bảo mật và quyền riêng tư của dữ liệu. Việc thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các công nghệ mã hóa bảo vệ quyền riêng tư và tính toán bí mật có thể bổ sung cho các chính sách này và giúp ngăn chặn các luật về quyền riêng tư và chuyển giao dữ liệu hà khắc.
Các nỗ lực liên tục để thúc đẩy thanh toán và khả năng tương tác hậu cần phải được tiếp tục và khu vực hóa hơn nữa. Các thí điểm khả năng tương tác thanh toán theo thời gian thực song phương và đa bên mạnh mẽ đã tồn tại trong khu vực. Các sáng kiến về khả năng tương tác thanh toán và việc áp dụng liên tục các tiêu chuẩn ISO 20022 nhằm mục đích hợp lý hóa thông tin liên lạc giữa các hệ thống thanh toán quốc gia.
Dự án Dunbar, một chương trình thử nghiệm tiền tệ kỹ thuật số của nhiều ngân hàng trung ương, có thể báo trước một kỷ nguyên mới cho các khoản thanh toán xuyên biên giới với chi phí thấp và hiệu quả.
Trong hậu cần thương mại, liên minh tận dụng sổ cái blockchain để thúc đẩy khả năng tương tác và giảm thời gian và chi phí vận chuyển đầu cuối có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại hiệu quả, tiết kiệm chi phí và xanh hơn. Nhưng điều này phải song song với việc chính phủ đẩy nhanh việc áp dụng các hoạt động thương mại không giấy tờ.
Việc hội nhập sâu hơn các thị trường, thực hiện các cam kết thương mại kỹ thuật số và cải thiện khả năng tương tác của thanh toán và dịch vụ hậu cần đều sẽ giúp người bán hàng trực tuyến Đông Á mở rộng doanh số bán hàng. Việc tích hợp các công ty nhỏ, người bán hàng từ xa và một đội quân ngày càng tăng người sáng tạo vào các thị trường mới sẽ cho phép thương mại toàn diện hơn và tạo ra lợi nhuận lớn nhất từ thương mại kỹ thuật số.