Tạo xung lực khai thác tối đa lợi ích từ CPTPP

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ ngày 14/01/2019, được kỳ vọng là bước ngoặt tạo ra xung lực mới, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các nước đối tác thành viên thực thi CPTPP đã đem lại tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng cho Việt Nam, là động lực mở đường cho hàng hóa Việt Nam sang các thị trường tiềm năng và mới mẻ. Song vẫn còn nhiều dư địa để doanh nghiệp Việt khai thác lợi ích mà hiệp định này mang lại.

Cơ hội từ các thị trường mới

Thống kê cho thấy, năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đạt khoảng 45,7 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2020. Sang năm 2022, đạt 53,6 tỷ USD, tăng 17,3% so với năm 2021.

Việt Nam với lợi thế là quốc gia có mặt trong CPTPP từ ban đầu, được ưu đãi hơn nhiều quốc gia ngoại khối đã có những lợi thế nhất định cần tận dụng để khai thác triệt để hơn, đặc biệt với khu vực các thị trường lần đầu có FTA, như Canada, Mexico…

Những thị trường mới ở trong khu vực CPTPP là có nhiều tiềm năng và dư địa cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Ví dụ Canada, mỗi năm nhập khẩu 500 tỷ USD hàng hóa, thuộc nhóm 15 nước có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất thế giới. Hay Mexico hàng năm cũng nhập tới 400 tỷ USD. Với ưu đãi thuế quan giảm dần theo lộ trình trong CPTPP, tạo điều kiện để hàng hóa Việt Nam có thể cạnh tranh với các nhà xuất khẩu ngoại khối tại 2 thị trường này.

Chia sẻ tại tọa đàm Phát triển thương hiệu Việt Nam tại thị trường CPTPP do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 27/9, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công Thương cho biết, nói về Hiệp định CPTPP, chúng ta chủ yếu tập trung nói về ba thị trường mà chúng ta chưa có FTA khi mà CPTPP có hiệu lực, đó là Canada, Mexico và Peru. Bởi vì với các thành viên còn lại chúng ta đã có FTA song phương như Nhật Bản, đa phương cũng có ví dụ như là các thành viên Australia, New Zealand, Singapore hay Malaysia.

“Nếu nhìn vào hai thị trường Canada, Mexico, kể từ khi thực thi CPTPP đã có sự tăng trưởng rất đáng khích lệ, kể cả trong thời kỳ Covid-19 hay thời kỳ có những biến động về địa chính trị trên thế giới thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của chúng ta sang hai thị trường này luôn ở hai chữ số. Ngoài ra thặng dư thương mại mà chúng ta có được từ hai thị trường này thường chiếm từ 1/3 cho đến 1/2 thặng dư thương mại của các quốc gia” – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên cho hay.

Với thị trường Peru, chúng ta thường cho rằng đây là thị trường khiêm tốn nhưng thực tế dư địa tăng trưởng của thị trường này lại rất cao. Có những năm tăng trưởng ba chữ số. Đấy là một điểm tích cực và cho thấy rõ ràng rằng doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tích cực các cơ hội mà từ CPTPP mang lại.

Nói cụ thể hơn về thị trường Canada, bà Trần Thu Quỳnh - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Canada chia sẻ, Canada hiện là 1 trong 10 đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam trên thế giới. Theo số liệu của cơ quan chức năng Canada, trong năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam sang Canada đã tăng 26,4% về giá trị kim ngạch so với năm 2021 và 5 năm sau khi thực thi CPTPP, xuất khẩu của chúng ta sang địa bàn đã tăng hơn gấp đôi, tức là từ mức 4,1 tỷ USD năm 2018 lên đến 9,9 tỷ USD năm 2022.

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, giá trị xuất khẩu của chúng ta sang địa bàn cũng tăng tới 110% sau 5 năm, tức đây là thị trường tỷ USD có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất trong nhóm các nước CPTPP. Với mức tăng trưởng xuất khẩu cao như vậy, hiện nay, Việt Nam đã trở thành đối tác nhập khẩu lớn thứ bảy của Canada và Canada cũng là nước chúng ta có thặng dư thương mại rất lớn, lên đến trên 9 tỷ USD.

Thực tế cho thấy, sau khi thực thi CPTPP, xuất khẩu của những mặt hàng hưởng thuế bằng 0% như: điện thoại, điện tử, điện máy hay kim loại cơ bản, thủy sản, rau củ quả, kể cả các sản phẩm khác như gạo điều, chè, càphê… đều có sự tăng trưởng đột biến, có những mặt hàng tăng đến 1000%.

Điều này cho thấy hiệp định CPTPP như một “đòn bẩy” giúp các doanh nghiệp của hai nước quan tâm hơn đến cơ cấu các sản phẩm và thị trường của nhau, từ đó gián tiếp thúc đẩy xuất khẩu cả những mặt hàng không có lộ trình giảm thuế.

Xây dựng thương hiệu – xu hướng tất yếu

Mặc dù tạo đột phá từ việc tham gia CPTPP, song tỷ trọng hàng hóa của Việt Nam tại các thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được như kỳ vọng. Tuy gia tăng về số lượng và giá trị xuất khẩu nhưng hàng hóa thương hiệu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này còn khá khiêm tốn. Nhiều sản phẩm hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường CPTPP vẫn còn mang thương hiệu nước ngoài.

Đơn cử tại thị trường như Canada, Mexico và Peru, theo ông Ngô Chung Khanh, có những mặt hàng của Việt Nam chỉ chiếm thị phần khoảng 3%-5% tại các thị trường đó. Hơn nữa, hình ảnh về thương hiệu của Việt Nam tại các thị trường này còn tương đối khiêm tốn. Ví dụ, ở các thị trường này người tiêu dùng đã biết đến cà phê Việt Nam, gạo Việt Nam... song khách hàng chỉ biết đến một thương hiệu cụ thể của Việt Nam, trong khi nhiều thương hiệu chưa xuất hiện nhiều trên các kệ siêu thị hay trong tâm trí của người tiêu dùng của các nước CPTPP, đặc biệt là các thị trường mới.

Từ thực tế của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Huyền, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất và Xuất khẩu Quế Hồi Việt Nam Vinasamex cho hay, từ năm 2007 khi tham gia một vài hội chợ quốc tế gần như khách hàng không hề biết rằng Việt Nam có quế, hồi hay những loại gia vị khác của Việt Nam cũng không có một lợi thế cạnh tranh nào so với những thị trường khác. “Vì khách hàng không biết đến Việt Nam, do vậy doanh nghiệp xác định đấy là một sứ mệnh để làm sản phẩm thực sự tốt bán ra được thật nhiều qua đó khẳng định một đại diện thương hiệu của Việt Nam mang nông sản và gia vị hữu cơ ra ngoài thế giới,” bà Huyền chia sẻ.

“Câu hỏi đặt ra là tại sao mình lại không ra một dòng sản phẩm với thương hiệu của mình để khẳng định thêm uy tín? Có thể sản lượng ban đầu chưa phải nhiều so với những mặt hàng khác mình bán số lượng lớn hơn. Tuy nhiên từng bước sẽ giúp cho việc tăng sự phủ rộng thương hiệu đối với khách hàng trên toàn thế giới. Cho nên Vinasamex đã quyết định xây dựng thêm hai thương hiệu nhỏ là Spice fest và Cinna kitchen, bà Huyền chia sẻ. Đồng thời cho biết, định hướng của Vinasamex là tập trung vào 4 thị trường chính: thứ nhất là Châu Âu, bao gồm tất cả các nước ở khu vực châu Âu; thị trường thứ hai là Mỹ và Canada; thị trường thứ ba là Nhật Bản và thị trường cuối cùng là Hàn Quốc (trong đó Canada và Nhật Bản là các thị trường thuộc khối CPTPP). Đây là 4 thị trường có yêu cầu rất khắt khe và khó tính về mặt tiêu chuẩn chất lượng. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng đó là một con đường phát triển bền vững cho doanh nghiệp.

Song trong quá trình từng bước định vị và phát triển thương hiệu như vậy, Vinasamex cũng gặp rất nhiều khó khăn để đưa được sản phẩm vào các kệ siêu thị hay đưa lên sàn Amazon. Vinasamex đã nhận được sự hỗ trợ từ Cục Xúc tiến thương mại để doanh nghiệp có được một gian hàng trên Amazon. Cùng với đó là đòi hỏi sự kiên trì của doanh nghiệp.

Thực tế hiện nay, đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thức xuất khẩu thông qua chuỗi cung ứng gia công xuất khẩu hoặc xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô và bán lại cho người chế biến ở nước ngoài, sau đó nguyên liệu được đối tác đóng gói và xuất khẩu bằng thương hiệu của họ. Bởi vậy, giá trị gia tăng cũng như thương hiệu riêng của Việt Nam còn rất khiêm tốn.

Nguyên nhân đươc chỉ ra là do nhiều doanh nghiệp chấp nhận theo kiểu “an phận thủ thường,” khi thấy đủ thì không có động lực để nâng cao hơn nữa giá trị có thể mang về. Quan trọng hơn là nhiều doanh nghiệp không đủ lực từ tài chính, nhân lực, kiến thức, kinh nghiệm và tư duy chiến lược để có thể làm thương hiệu cho riêng mình. Ngoài ra là những khó khăn để kết nối với sâu vào chuỗi cung ứng của đối tác nếu không có sự hỗ trợ, giúp sức của các cơ quan chức năng.

Đại diện Cục Xúc tiến thương mại, bà Trịnh Huyền Mai, Phó Trưởng phòng Chính sách xúc tiến thương mại cho biết, trong ngành công nghiệp, khoảng 95% giá trị xuất khẩu thuộc trong tay của các tập đoàn quốc tế FDI có thương hiệu toàn cầu riêng…, còn trong ngành ôtô, gần đây Việt Nam mới nổi lên thương hiệu Vinfast có thể đưa thương hiệu ôtô Việt Nam ra sân chơi toàn cầu. Vì vậy, để xây dựng thương hiệu và xuất khẩu thương hiệu, bên cạnh tiềm lực và chiến lược về công tác quản trị, bà Mai đề nghị doanh nghiệp nên chủ động gia tăng giá trị sản phẩm thông qua việc cải tiến thường xuyên chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm cho phù hợp với thị trường đích, nhất là việc chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

Cùng với đó, doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu và tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại do các bộ, ngành, hiệp hội triển khai và tận dụng được uy tín của thương hiệu quốc gia, thương hiệu ngành hàng… khi thâm nhập các thị trường mới.

“Ngoài việc đầu tư về chiến lược thương hiệu thật bài bản, các kế hoạch truyền thông định kỳ cũng phải quan tâm đến việc đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm thương hiệu sản phẩm của mình ở thị trường nước ngoài,” bà Mai khuyến nghị.

Về góc độ cơ quan chức năng, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ các hiệp hội xây dựng chiến lược cạnh tranh của thương hiệu ngành, xây dựng và quảng bá những chỉ dẫn địa lý của ngành. Qua đó không chỉ quảng bá và phát triển, bảo vệ các thương hiệu của mình ra thị trường thế giới.

 

Bình luận của bạn