Tương lai nông nghiệp Việt Nam: Chất lượng sản phẩm là “cứu cánh“

Theo nhiều chuyên gia, để phát triển nông nghiệp Việt Nam bền vững, mấu chốt phải là tăng chất lượng nông sản, tăng lợi ích cho người làm nông nghiệp.

Tại hội thảo về triển vọng thị trường ngành nông nghiệp Việt Nam 2016, sáng nay (27/5), do Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) và Vụ Kinh tế của Văn phòng Quốc hội tổ chức, các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện các đề án tái cơ cấu ngành, đặc biệt là chống các cú “sốc” từ thị trường thế giới.

Áp lực cạnh tranh tăng

Ông Nguyễn Trung Kiên, Trưởng Bộ môn Nghiên cứu Thị trường và ngành hàng (IPSARD), nhìn lại mấy năm gần đây cho thấy, giá nội địa nhiều mặt hàng nông sản chủ lực trong xu hướng giảm khiến giảm động lực sản xuất. Trong bối cảnh đó, hạn hán và xâm mặn gây thiệt hại nặng cho nông nghiệp. Tính đến cuối tháng 5/2016, hạn hán và xâm mặn gây ra: Sản lượng lúa đông xuân tại ĐBSCL giảm 1,13 triệu tấn; nước biển xâm nhập sâu hơn thông thường 10-25km; sản lượng tôm sú giảm 12%, tôm thẻ giảm 14%; một số diện tích cà phê chết khô, năng suất kém; năng suất trái cây có múi và dừa, hạt tiêu đều giảm mạnh.

Trước đó, năm 2015 xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực cũng giảm, như: gạo, cà phê, cao su, thủy sản. Sang quý I/2016, dù một số mặt hàng xuất khẩu có tăng trưởng trở lại so với năm 2015 nhưng giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực có sự suy giảm. Trong đó, xuất khẩu gạo, cà phê giảm trên các thị trường lớn và truyền thống; cao su và thủy sản cũng tương tự. Một số sản phẩm khác có tăng trưởng xuất khẩu (gỗ, hồ tiêu, hạt điều, rau quả) nhưng cũng không bù đắp được suy giảm trên.

Nguyên nhân chính của giảm giá hàng hóa trên thị trường nông sản thế giới, theo ông Kiên, là do cung vượt cầu. Đơn cử, tồn kho gạo tại Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Philippines rất cao. Hay như với cao su, dù tiêu thụ vượt sản xuất, nhưng giá dầu giảm đã tác động tiêu cực giá cao su. Cà phê cũng trong cảnh cung vượt cầu.

Trong bối cảnh đó, các nước xuất khẩu lớn đã tăng cường hỗ trợ nông dân trong sản xuất – xuất khẩu, như: Giảm diện tích, giảm sản lượng sản xuất lúa, cao su (Thái Lan, Indonesia, Malaysia); tăng nhập khẩu gạo đảm bảo an ninh lương thực (Philippines, Indonesia); duy trì trợ cấp cao (gạo Ấn Độ, cao su Indonesia và Malaysia,…); hạ tiêu chuẩn chất lượng cà phê để duy trì xuất khẩu (cà phê Colombia); khu vực nhà nước và tư nhân Thái Lan hợp tác tăng đầu tư R&D thủy sản.

Còn tại Việt Nam, đã có nhiều giải pháp nhằm cải thiện tình hình như: Nhà nước khuyến khích tăng cung gạo khi tín hiệu thị trường tích cực; nỗ lực tái canh cà phê; điều chỉnh giảm thuế đối với doanh nghiệp cao su; tăng kiểm soát cung, giám sát chất lượng hồ tiêu; tiếp thu phản hồi; hỗ trợ tăng cường năng lực khai thác hải sản; tăng cường kiểm soát chất lượng thịt nhập khẩu, dịch bệnh; nỗ lực khơi thông thị trường xuất khẩu rau quả chất lượng cao.

Doanh nghiệp cũng đã chú ý nâng cao tiêu chuẩn chất lượng lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, bò sữa; tăng kết nối, phản hồi thông tin thị trường, giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí; tích cực đấu tranh pháp lý trong thương mại quốc tế… Còn nông dân thì chuyển đổi sản xuất ứng phó với biến động thời tiết – môi trường; đa dạng hóa mô hình sản xuất… Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả thực tiễn vẫn chưa cao, áp lực với ngành nông nghiệp ngày càng tăng. Quý I/2016, nông nghiệp đã tăng trưởng âm.

Mở rộng kinh doanh tại các thị trường tiềm năng

Trong năm 2016, El Nino tiếp diễn đến nửa đầu năm 2016 khiến giảm sản lượng lúa gạo Thái Lan, Phillippines; gây hạn hán, ảnh hưởng đến sản xuất cà phê tại Brazil, Colombia, Indonesia và Việt Nam. Đồng thời, nó ảnh hưởng đến sản xuất tôm tại Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia nhiều hơn Việt Nam. Giảm sản lượng cao su Thái Lan, Indonesia. Và khô hạn đầu năm 2016 cùng với La Nina vào cuối năm có thể ảnh hưởng đến sản xuất hồ tiêu Indonesia, Ấn Độ và Malaysia.

Bên cạnh đó, tỷ giá cũng có xu hướng hỗ trợ tích cực cho nông sản. Đó là sự phá giá mạnh của đồng Euro và Yên Nhật tăng giá so với đồng USD khiến tăng sức mua tại các thị trường lớn, truyền thống; đồng Bath Thái Lan, Rupee Ấn Độ, Real Brazil, Rupiah Indonesia, Ringgit Malaysia tăng giá so với USD đã hỗ trợ giá gạo, cà phê, cao su, thủy sản. Tuy nhiên, “cũng cần lưu ý, Mỹ có thể tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2016 và đảo ngược chiều hướng tăng giá các đồng tiền trên thì cũng sẽ tác động mạnh đến giá nông sản”- ông Kiên nhấn mạnh.

Trước thực trạng này, nghiên cứu của IPSARD khuyến nghị: Việt Nam cần tiếp tục phát triển kinh doanh với các đối tác truyền thống có nhu cầu tăng trở lại, như: Lúa gạo (Philippines, Indonesia); Cao su, rau quả, hạt điều (Trung Quốc); Hồ tiêu, hạt điều (EU, Mỹ); Gỗ và sản phẩm từ gỗ (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU); Thủy sản (Mỹ).

Đồng thời, cần mở rộng kinh doanh tại các thị trường tiềm năng: Lúa gạo (thị trường châu Phi và EU); Cà phê (Anh, Ba Lan, Séc, Hà Lan, Phần Lan, Bulgarie);

Cao su (Ấn Độ, Malaysia, Mỹ); Hồ tiêu, hạt điều (Trung Đông và châu Á); Thủy sản (châu Á (đặc biệt là Trung Quốc) và Mỹ Latin); Rau quả (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, NewZealand, Hàn Quốc, EU, Ấn Độ, Chilê); Gỗ và sản phẩm từ gỗ (Nga).

Đặc biệt, các chuyên gia của IPSARD khuyến nghị cần đẩy mạnh thực hiện các đề án tái cơ cấu ngành; linh hoạt hơn trong các chính sách về tỷ giá; quy định doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo sử dụng công nghệ cao, sản xuất gạo đặc sản, gạo chế biến; thắt chặt hơn quản lý về buôn lậu và gian lận thương mại, vệ sinh ATTP, chất lượng đầu ra.

Ông Kiên cũng đề nghị cần đẩy mạnh đàm phán, đấu tranh về các vấn đề rào cản kỹ thuật để đảm bảo tiêu chuẩn ở mức độ hợp lý, tạo điều kiện phát triển thương mại công bằng; tiếp cận các tập đoàn đa quốc gia, chuỗi siêu thị lớn, hệ thống bán lẻ; đặc biệt chú trọng tuyên truyền thông tin về các rào cản kỹ thuật và điều khoản có lợi cho Việt Nam trong các hiệp định đã ký kết; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đã thâm nhập vào các thị trường lớn, phát triển: lúa gạo, thủy sản, rau quả, hồ tiêu, hạt điều; phát triển thị trường nội địa: rau quả, cà phê, cao su.

Bình luận của bạn