Thuyền thúng 'made by Liem'
Căn chòi dựng tạm bên con đường ven biển Đà Nẵng suốt ngày phát ra tiếng gõ, tiếng đục.
Đó là nơi cha con ông Phan Liêm cho ra đời những chiếc thuyền thúng mang thương hiệu của riêng mình.
Thuyền thúng của cha con ông nổi tiếng khắp vùng biển miền Trung, có mặt trên tàu cá của ngư dân từ Đà Nẵng đến Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ra đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa.
Chưa dừng lại ở đó, thuyền thúng của ông còn vượt đại dương, có mặt khắp các khu du lịch nổi tiếng ở Philippines, Nhật Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha với thương hiệu đậm chất Việt: “Thuyen thung by Liem”.
Ông Liêm đang hoàn thiện những chiếc thuyền thúng chuẩn bị xuất đi Tây Ban Nha
Người đan thuyền cuối cùng
Cái nắng mùa hè chói chang không ngăn nổi nhóm du khách nước ngoài dừng chân đứng nhìn chăm chú hai người đàn ông đang làm việc trên vỉa hè con đường Trường Sa chạy dọc biển Đà Nẵng.
Trong căn chòi nhỏ dựng tạm, hai người đàn ông một già, một trẻ đang cặm cụi làm việc. Lão ngư ở tuổi thất thập đang ngồi dùng rựa vót những thanh tre dài, thẳng tắp. Người đàn ông ở tuổi trung niên mình trần, gắng sức đan các thanh tre thành các mối liên kết.
Cô hướng dẫn viên du lịch liên tục thuyết trình bằng tiếng Anh cho nhóm du khách: “Đây là những người làm nghề đan thuyền thúng, được làm từ cây tre và một số vật liệu bí truyền. Họ là những người cuối cùng ở TP Đà Nẵng còn theo nghề của cha ông. Thuyền thúng được ngư dân Việt Nam sử dụng khi đánh bắt hải sản”. Các vị khách du lịch liên tục gật đầu, chỉ trỏ vô cùng thích thú.
Lão ngư đó chính là ông Phan Liêm (70 tuổi, trú tổ 22, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, Đà Nẵng), chủ cơ sở đan thuyền thúng mang tên chính mình.
“Gia đình tôi làm nghề ni đã 30 năm rồi. Hồi trước ở Thọ Quang nhà nào cũng đan thuyền thúng, bán ra khắp miền Trung. Tiếng chẻ tre, tiếng đục đẽo vang lên suốt ngày náo động cả một vùng. Vậy nhưng bây giờ, cả Đà Nẵng này chỉ còn cha con tôi theo nghề”, ông Liêm nói.
Ông Liêm kể, thời trai trẻ cũng từng ra khơi đánh cá như bao thanh niên lớn lên ở vùng biển Thọ Quang. Ông từng làm thuyền trưởng con tàu của gia đình lênh đênh trên khắp vùng biển từ Cà Mau ra đến Cát Bà (Hải Phòng). Năm 1985 khi đang đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa, con tàu của ông gặp nạn trong một trận áp thấp nhiệt đới.
Ông nhớ lại: “Con tàu bị sóng đánh tan nát, 6 người trong đó có tôi trôi dạt trên biển tưởng như đã bỏ mạng giữa biển. Tỉnh dậy, chúng tôi thấy mình nằm trên một con tàu khác mới biết là được cứu sống. Về bờ, tôi bỏ nghề đi biển ở nhà theo học nghề đan thuyền thúng của cha mình để mưu sinh.
Ngày mới học nghề, hai tay tôi liên tục đổ máu vì những vết đâm của tre nứa. Do ngồi lâu nên lưng nhức mỏi không chịu nổi, phải mất 2 năm tôi mới nắm được những kỹ thuật cơ bản của nghề”, ông Liêm nhớ lại.
Ông Liêm cho hay cách đây chừng hai chục năm thì ngoài gia đình ông còn có hơn 30 cơ sở khác cũng làm nghề đan thuyền thúng. Tuy nhiên, nhiều gia đình không bám trụ nổi với nghề khi những chiếc thuyền thúng làm bằng vật liệu composite xuất hiện.
“Thuyền composite giá rẻ hơn nên nhiều ngư dân chọn mua, thuyền tre trở nên ế ẩm. Những năm 2000 là thời điểm khó khăn nhất với gia đình tôi, cả tháng chỉ bán được một vài chiếc nên không đủ tiền nuôi vợ con. Người làm nghề lần lượt bỏ việc kiếm kế khác mưu sinh.
Tôi cũng đã bỏ ghề đi làm phụ hồ kiếm tiền mua gạo nuôi vợ con. Vậy nhưng khách hàng quen thỉnh thoảng vẫn quay lại đặt hàng, tôi lại nhớ nghề nên không bỏ được. Tôi quay lại mở cơ sở SX, may trời không phụ làm ăn ngày càng khấm khá”, ông Liêm khoe.
“Nghề đan thuyền thúng vất vả, cực nhọc nên chẳng mấy ai bám trụ nổi với nghề. Cả đời tôi nhận hàng chục đệ tử nhưng cuối cùng cũng chỉ có hai đứa con gắn bó với nghề cùng tôi cho đến bây giờ”, ông Liêm nói.
Hai người con nối nghiệp ông Liêm là anh Phan Minh (43 tuổi) và Phan Ánh (37 tuổi). Ông Liêm cho hay những năm gần đây cơ sở SX thuyền thúng của cha con ông làm không hết việc vì ngư dân đang quay lại sử dụng thuyền tre.
“Thuyền làm bằng composite giá rẻ nhưng không an toàn. Khi bà con đánh bắt trên biển gặp gió thường hay bị lật chứ không vững chãi như thuyền tre”, ông Liêm nhận định.
Xuất ngoại
Giữa cái nắng hè chang chang, cha con ông Liêm vẫn làm việc không ngơi tay. “Nghề này mùa nắng phải "cày" để có sản phẩm bán quanh năm. Mùa mưa thì cha con tôi chỉ biết ngồi nhà nhìn ra biển theo từng con sóng, thất nghiệp mấy tháng liền”, anh Phan Minh, con trai ông Liêm nửa đùa nửa thật.
Theo ông Liêm, một chiếc thuyền thúng phải trải qua hàng chục giai đoạn làm việc thủ công mới hoàn thành gồm chọn tre, chẻ, vót, đan, bện, dui, ép tre, uốn, nức vành, quét lớp chống thấm…
“Tre phải chọn mua tre già từ vùng đồi núi xã Hòa Nhơn (huyện Hòa Vang) và thuê xe vận chuyển về. Phải chẻ tre thành nan khi đang còn tươi, phơi liên tục giữa nắng to mùa hè 3 - 4 ngày để các thanh nan se lại, dẻo chắc. Vậy nên chỉ làm được việc vào mùa hè là rứa.
Từng chiếc nan tre được đan tỉ mỉ, gõ thật chặt rồi được uốn và nức vành để ra hình hài một chiếc thuyền thúng. Chiếc thuyền sẽ được đem phơi trong hai ngày sau đó mới được quét lớp chống thấm”, ông Liêm tỉ mỉ kể từng công đoạn.
Ông Liêm bật mí thuyền thúng gia đình ông có chất lượng tốt, sử dụng được lâu năm hơn các cơ sở SX khác trong cả nước, bí quyết nằm ở lớp quét chống thấm.
“Đó là dầu rái được lấy nhựa từ những khu rừng già ở tỉnh Quảng Nam. Cây rái cũng được thợ rừng đốt lấy dầu vào mùa hè, đem về tinh chế rồi mang bán. Tôi phải đặt trước ở mối quen, trả tiền trước để họ trang trải chi phí mới có dầu cho mình SX”, ông Liêm cho hay.
Theo anh Minh, để hoàn thành một chiếc thuyền thúng phải mất khoảng 5-7 ngày, tùy vào kích cỡ. Giá bán cũng phụ thuộc vào kích thước từng chiếc thuyền. Loại lớn có giá 4 triệu đồng, loại nhỏ giá 3 triệu đồng. Trừ hết mọi chi phí, cha con ông Liêm lãi 2 triệu đồng/chiếc. “Nếu làm hết công suất, mỗi tháng 3 cha con tôi hoàn thành khoảng 15 chiếc thuyền thúng”, anh Minh khẳng định.
Anh Minh tiết lộ khách hàng của cha con anh không chỉ có ngư dân trong nước mà đã đi xa khắp nơi trên thế giới như như Anh, Nhật, Úc, Philippines, Tây Ban Nha… Năm 2006, một đoàn khách Nhật Bản tham quan biển Đà Nẵng tò mò ghé lại xem cha con ông Liêm đang làm việc. Ít ngày sau, 2 vị khách người Nhật quay lại cùng với người hướng dẫn viên. Họ đề nghị cha con ông Liêm đan cho mình 10 chiếc thuyền thúng.
“Nghe họ đòi mua, cha con tôi nghĩ họ mang về Nhật để đi đánh cá. Khi hoàn thành sản phẩm, người hướng dẫn viên nói mua về để phục vụ trong các khu du lịch. Anh ta khuyên chúng tôi khắc thêm chữ “thuyen thung by Liem” (thuyền thúng được làm bởi ông Liêm) lên vành thúng để người khác được biết. Chúng tôi làm theo. Sau này nó trở thành thương hiệu thuyền thúng của cha con chúng tôi. Nhờ đó mà thu nhập của gia đình tôi rất ổn định”, anh Minh nói.
Theo anh Minh, thuyền thúng xuất ngoại có giá bán cao hơn 2 triệu đồng so với thuyền cùng loại bán cho ngư dân trong nước. Mỗi năm, cha con anh xuất khoảng 50 chiếc thuyền thúng ra nước ngoài.
Chỉ vào 12 chiếc thuyền thúng loại trung đang phơi nắng, ông Liêm cho biết sẽ xuất sang Philippines vào giữa tháng 6.
“Chỉ cần phơi nắng vài ngày nữa là xuất được. Thằng con tôi đang làm thủ tục hải quan để xuất cảng bằng container. Trước khi đóng hàng, tôi còn đính vào đó nhãn hiệu của cơ sở mình nữa mới xong: “thuyen thung by Liem - Da Nang, Viet Nam”, ông Liêm nói. Ánh mắt ông Liêm vừa rạng ngời niềm vui nhưng ẩn chứa sâu trong đó là nỗi lo vô hình.
“Thuyền thúng gắn bó với ngư dân Việt Nam trên biển. Đó là văn hóa của những người đi biển. Tôi sợ sau này mình chết đi, con cháu bỏ nghề thì những chiếc thuyền thúng truyền thống chỉ còn là dĩ vãng”, ông Liêm tâm sự.
Theo Nông Nghiệp