Nón làng Chuông: Ngời sáng vẻ đẹp truyền thống
Cách trung tâm Hà Nội chừng 40 km về phía Tây, làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) từ hàng trăm năm nay đã nổi tiếng về nghề làm nón lá. Với 2.400 hộ dân ở đây, nghề làm nón không giàu nhưng đủ sống, hợp với vùng quê nghèo, ít cày cấy. Từ lâu đời, hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài và chiếc nón lá hay đằm thắm trong tà áo tứ thân với chiếc nón quai thao, đã in đậm vào tâm thức người Việt Nam. Chiếc nón lá theo người phụ nữ Việt Nam trên mọi nẻo đường, trên những cánh đồng lam lũ, và ngày nay, trên cả những sàn diễn thời trang rực rỡ. Nón làng Chuông đẹp dáng, lại bền, từng là kỷ vật của bao cô gái bước lên xe hoa theo chồng.
Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông
Cách trung tâm Hà Nội chừng 40 km về phía Tây, làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) từ hàng trăm năm nay đã nổi tiếng về nghề làm nón lá. Với 2.400 hộ dân ở đây, nghề làm nón không giàu nhưng đủ sống, hợp với vùng quê nghèo, ít cày cấy. Từ lâu đời, hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài và chiếc nón lá hay đằm thắm trong tà áo tứ thân với chiếc nón quai thao, đã in đậm vào tâm thức người Việt Nam. Chiếc nón lá theo người phụ nữ Việt Nam trên mọi nẻo đường, trên những cánh đồng lam lũ, và ngày nay, trên cả những sàn diễn thời trang rực rỡ. Nón làng Chuông đẹp dáng, lại bền, từng là kỷ vật của bao cô gái bước lên xe hoa theo chồng.
Xa xưa, nón làng Chuông là món quà tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng, được làm nên bởi những bàn tay tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân làng nghề. Còn ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trong và ngoài nước.
Trung bình một ngày, làng Chuông làm được 7.000 chiếc nón, mang tiêu thụ ở các tỉnh. Ngoài ra, nón làng Chuông đã được xuất sang Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu.
Tuy nhiên, so với các làng nghề khác, người dân làng Chuông vẫn còn nghèo. Nguyên liệu lá lụi phải nhập từ các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, vì làng không tự trồng được. Giá nón xuất đi lại rẻ, chỉ từ 3.000 đến 7.000 đ/chiếc, nên cả gia đình cùng làm thì chỉ thu nhập trung bình một hộ chỉ là 10.000 – 15.000 đ/ngày.
Cầm chiếc nón trắng lóa với những đường khâu khéo léo và chắc chắn trên tay, ít ai biết rằng, để làm nên nó cũng thật lắm công phu. Đầu tiên là việc chọn lá. Lá lụi mua về được vò trong cát rồi phơi hai, ba nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang bạc trắng. Sau đó, lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không giòn, không nát.
Vòng nón làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều. Khi nối, bắt buộc vòng nón phải tròn và chỗ nối không có vết gợn. Khác với nón thường có đến 20 lớp vòng, nón làng Chuông có 16 lớp vòng, giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại.
Tiếp theo, người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nứa rồi khâu. Khâu là một công đoạn rất khó, vì lá dễ rách, nên chỉ những bàn tay khéo léo, có kinh nghiệm mới làm được. Bàn tay người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt, nhưng mềm mại, từng mũi khâu thẳng, đều từ vòng trong và vòng ngoài.
Chiếc nón thành hình, người thợ hơ chiếc nón qua hơi diêm sinh làm cho mầu nón trở nên trắng muốt và nón không mốc.
Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp người như nón ba tầm cho các cô gái; nón nhô, nón lông, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng. Nhưng từ năm 1940 cho đến nay, những người thợ làng Chuông chỉ còn làm duy nhất một loại nón.
Ông Hai Cát, một nghệ nhân giờ đã hơn 80 tuổi, là người có công mang nón Xuân Kiều, còn gọi nón Ba Đồn, về làng sản xuất thay cho các loại nón cổ.
Hiện tại, làng chỉ còn hai nghệ nhân làm nón cổ. Đó là ông Lê Văn Tuy làm nón chóp và ông Trần Văn Canh làm nón ba tầm, còn gọi là nón quai thao.
Làm nón quai thao khó và phức tạp hơn làm nón thường, nhưng lại không sử dụng phổ biến. Bởi vậy, nghề làm nón đã nghèo, làm nón quai thao lại càng nghèo hơn. Nhưng với ý định “Giữ cho một sản vật cổ truyền không bị mất đi trong cuộc sống hiện tại và để con cháu biết giữ gìn nó”, nghệ nhân Trần Văn Canh đã quyết định tìm hiểu và giữ nghề truyền thống làm nón quai thao của làng. Bảy mươi tư tuổi, bị mất một chân trong cuộc chiến tranh, nhưng bàn tay ông vẫn nhanh nhẹn, khéo léo. Sản phẩm ông làm ra được xuất đi theo đơn đặt hàng của đoàn văn công các tỉnh. Những chiếc nón quai thao của ông đã từng được trưng bày tại các triển lãm trong và ngoài nước.
Chợ làng Chuông họp một tháng sáu phiên chính, vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24 và 30. Những phiên chợ này chỉ bày bán một thứ hàng duy nhất là nón. Nón được xếp thành từng chồng dài, trắng lóa. Nghề làm nón thích hợp với phụ nữ và họ cũng là người tiêu thụ chủ yếu. Vì thế, các phiên chợ làng thu hút rất đông các bà, các cô tới. Đến phiên chợ làng Chuông vào những ngày đầu năm, mới thấy hết được những đặc sắc của một làng nghề truyền thống, mới biết rằng mầu nón trắng đã trở thành một thứ gần gũi thân thiết với người dân. Mầu trắng của nón lấp loáng khắp nơi, xen lẫn khuôn mặt hồng hào của người thôn nữ, cùng những tiếng cười nói, mời chào rộn ràng. Mặc dù còn nghèo, nhưng nhiều gia đình chỉ làm nón mà đã nuôi hai, ba người con học hết đại học. “Tôi tự hào với nghề truyền thống của làng, nhưng mong rằng, làng nghề được quan tâm nhiều hơn để cuộc sống những người làm nón như chúng tôi bớt khó khăn”. Một nghệ nhân hơn 40 năm gắn bó với nghề, gia đình từng năm đời làm nón, đã thổ lộ như vậy.
Bên những triền đê phơi lá lụi trắng xóa, bàn tay những người dân làng Chuông, từ em bé 7, 8 tuổi cho đến cụ già 70, 80 tuổi vẫn từng ngày gìn giữ vẻ đẹp cho một nghề truyền thống, giữ gìn một nép đẹp bình dị của người phụ nữ Việt Nam, góp thêm niềm tự hào của chúng ta với bạn bè quốc tế.
VnCharm
Nguồn tham khảo
http://netdepviet.org/vn/non-lang-chuong-ngoi-sang-ve-dep-truyen-thong-2941-1-1.html