Làng nghề khăn xếp "độc" nhất miền Bắc
Nằm cách thành phố Nam Định hơn 20km về phía Tây Nam, ít ai biết được rằng những cái khăn xếp thường thấy trong các lễ hội, đám cưới, mừng thọ… Hiện nay, ở miền Bắc chỉ duy nhất ở thôn Giáp Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực là còn sản xuất khăn xếp. Không ai biết làng nghề khăn xếp Giáp Nhất có từ bao giờ, cũng không ai nhớ ông tổ của nghề là ai, họ chỉ biết ông cha cứ đời này qua đời khác truyền lại cho con cháu sau này và cho đến ngày nay Giáp Nhất vẫn là nơi “giữ hồn Việt” vào những chiếc khăn xếp.
Nằm cách thành phố Nam Định hơn 20km về phía Tây Nam, ít ai biết được rằng những cái khăn xếp thường thấy trong các lễ hội, đám cưới, mừng thọ… Hiện nay, ở miền Bắc chỉ duy nhất ở thôn Giáp Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực là còn sản xuất khăn xếp.
Không biết khăn xếp, áo the đã có từ lúc nào, nhưng cũng từ khi xuất hiện cho đến nay khăn xếp áo the chính là trang phục truyền thống của người Việt. Xã hội ngày một phát triển kéo theo đó những chiếc khăn xếp, áo the cũng dần dần được người Việt thay đổi. Nhưng ngày nay, trong những mùa lễ hội, đám cưới, mừng thọ… hay các cuộc giao lưu văn hóa trong và ngoài nước. Chiếc khăn xếp, áo the luôn được người Việt khoác trên mình với niềm tự hào riêng biệt.
Đối với áo the không khó để bắt gặp những làng nghề trên khắp cả nước. Song đối với khăn xếp, ít ai biết được rằng ở miền Bắc, hiện nay chỉ duy nhất có một nơi sản xuất đó là làng nghề khăn xếp Giáp Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Không ai biết làng nghề khăn xếp Giáp Nhất có từ bao giờ, cũng không ai nhớ ông tổ của nghề là ai, họ chỉ biết ông cha cứ đời này qua đời khác truyền lại cho con cháu sau này và cho đến ngày nay Giáp Nhất vẫn là nơi “giữ hồn Việt” vào những chiếc khăn xếp.
Làm khăn xếp tưởng chừng như rất đơn giản, nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm
Thôn Giáp Nhất có khoảng 140 hộ làm nghề khăn xếp. Trước đây, khăn xếp Giáp Nhất được làm bằng chất liệu vải để đội đầu và chủ yếu được làm duy nhất một màu đen, cùng với sự thích ứng với đà phát triển của xã hội, khăn xếp dần dần được chuyển sang đủ các loại màu khác nhau.
Khăn xếp Giáp Nhất hiện có các loại như khăn đen với 4 quấn, 7 nếp; khăn 5 quấn, 7 nếp; khăn 6 quấn, 9 nếp; khăn quang dùng trong tế lễ (nam giới đội), khăn cô, khăn tế, khăn hầu các giá đồng… Tất cả các công đoạn như quấn, dán, khâu, cắt… đều được làm thủ công bằng tay. Khi quấn người làm phải cần mẫn, tỉ mỉ, chặt tay để các nếp không bị xô lệch, phải đều tăm tắp, vừa vặn.
Ở miền Bắc, hiện nay chỉ duy nhất ở thôn Giáp Nhất là sản xuất khăn xếp
Theo lời kể của các nghệ nhân làng Giáp Nhất, người xưa có để lại một lề lối cổ truyền về việc đội khăn xếp đối với đàn ông, ở tuổi khác nhau đàn ông sẽ đội khăn xếp theo màu khác nhau. Như đàn ông từ 50 - 60 tuổi sử dụng loại khăn xếp màu đen, có chữ Thọ hay không đều được. Từ 70-89 tuổi phải đội khăn xếp màu đỏ, có chữ Thọ ở trên. Các cụ ông từ 90 tuổi trở lên phải đội khăn màu vàng, chữ Thọ ở trên.
Khăn xếp gồm 3 loại: Khăn dành cho nam, cho nữ và loại khăn cả nam, nữ đều đội được. Khăn dành cho nam thường là loại khăn quang, đằng sau phía trên búi tó dựng đứng, đằng trước phía trên là lưỡi trai, nếp và vành. Chất liệu để làm khăn trước đây là vải lượt, nhiễu hay vải sa tanh cũ, cốt khăn làm bằng giấy. Bây giờ, khăn xếp được làm với chất liệu tốt hơn như lớp ngoài là sa tanh, bóng, phi, nhung, gấm... Bên trong là vải sợi lót, cốt khăn làm bằng mút. Bình quân giá khăn xếp khoảng 20 nghìn đồng/chiếc. Trong đó, giá cao như khăn dân tộc, khăn chầu có giá 30.000 đồng/chiếc, rẻ nhất là khăn thọ màu đen giá 13.000 đồng/chiếc...
Bà Bùi Thị Kên đang làm một chiếc khăn xếp
Để làm được một chiếc khăn xếp phải trải qua 7 công đoạn như cắt vải, cắt xốp, máy, quấn, vẽ hoa... Hiện nay, dù đã đưa máy móc thay thế cho làm thủ công ở một số công đoạn và các hộ trong làng nghề đã phân chia sản xuất theo từng công đoạn khác nhau để nâng cao năng suất nhưng thu nhập từ nghề vẫn còn rất thấp.
Dù thu nhập không đáng là bao nhưng theo như ông Bùi Văn Hưng, chủ một xưởng làm khăn xếp ở thôn Giáp Nhất tâm sự: “Dù giá trị kinh tế của một chiếc khăn xếp mang lại không đáng là bao, thậm chí nếu đi so với các nghề khác thì càng không thấm. Nhưng chúng tôi không bao giờ từ bỏ nghề này, bởi vì chiếc khăn xếp mang một giá trị văn hóa, lịch sử bao đời của dân tộc, còn quý hơn cả tiền bạc”.
Ông Nguyễn Văn Viên, một người làm khăn xếp cho biết: “Làm khăn xếp tưởng chừng như rất đơn giản, nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm nhất trong cả chu trình làm ra chiếc khăn xếp. Chiếc khăn xếp sau khi hoàn thành phải chắc chắn, độ dày các lớp đều nhau, cao độ của từng lớp hợp lý”.
Khăn xếp gồm 3 loại: Khăn dành cho nam, cho nữ và loại khăn cả nam, nữ đều đội được
Đã có những thời điểm, làng khăn xếp Giáp Nhất tưởng chừng như sẽ mai một theo thời gian. Nhưng nhờ những nghệ nhân yêu nghề trong thôn mà cái nghề “giữ hồn Việt” trong những chiếc khăn xếp mới không bị “thất truyền”. Trai gái thôn Giáp Nhất dù không sinh sống bằng nghề làm khăn xếp, nhưng ít nhất họ cũng được truyền dạy lại quy trình cách làm một chiếc khăn xếp như thế nào.
Theo như các nghệ nhân làm khăn xếp làng Giáp Nhất cho biết, khăn xếp miền Bắc vẫn giữ nguyên hình dạng vốn có từ cổ xưa, còn khăn xếp miền Trung, miền Nam thì cách tân nhiều. Khác biệt rõ nhất là khăn miền Bắc có nếp quấn dày hơn và dựng ngang trong khi khăn của miền Trung, Nam thì dựng đứng. Điểm khác thứ hai là phần lưỡi trai khăn xếp miền Bắc quấn, xếp thành hình chữ Nhân trong khi miền Trung, Nam là hình chữ Nhất. Khác biệt nữa là búi tó (búi để buộc tóc) khăn xếp phía bắc đặt ở phần phía trên đỉnh đầu, trong khi khăn xếp miền Trung, Nam đặt thấp hơn, lùi xuống phía sau gáy.
Trước đây, khăn xếp chỉ làm duy nhất một màu đen
Ông Vũ Văn Vinh, nghệ nhân làm khăn xếp cho biết: “Hiện nay, chỉ ở Giáp Nhất và Huế là còn làm khăn xếp. Mặc dù khăn xếp, áo the không còn là trang phục hằng ngày của người dân, nhưng vào những dịp lễ hội, đám cưới, mừng thọ…hay là những sự kiện lớn của cả nước như Hội nghị Apec – 14 đều mang trên mình chiếc khăn xếp… Người làm khăn xếp chúng tôi vui mừng lắm. Điều đó chứng tỏ khăn xếp vẫn đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là giá trị văn hóa lịch sử”.