Thổ cẩm Việt Nam

Thổ cẩm là một loại vải dệt thủ công với các họa tiết được bố trí xen lẫn, nổi lên trên bề mặt vải như thêu. Những hoa văn này đem lại cho bề mặt vải sự tương phản về đường nét, màu sắc, ánh vàng hoặc bạc trên satin…

Thổ cẩm là một loại vải dệt thủ công với các họa tiết được bố trí xen lẫn, nổi lên trên bề mặt vải như thêu. Những hoa văn này đem lại cho bề mặt vải sự tương phản về đường nét, màu sắc, ánh vàng hoặc bạc trên satin…

alt

Nghề dệt thổ cẩm có từ rất lâu đời ở Việt Nam, là một nét đặc trưng văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trước đây, sản phẩm thổ cẩm được tạo ra chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái về nhà chồng, và một phần để trao đổi hàng hoá. Ngày nay, thổ cẩm còn là món quà lưu niệm ý nghĩa cho du khách thập phương.

Nguyên liệu & Cách thức Dệt Thổ cẩm ở Việt Nam

Nguyên liệu chính được sử dụng là bông vải. Bông vải thu hoạch theo mùa được đánh tơi xốp rồi kéo thành sợi. Một số dân tộc còn khai thác chất liệu vỏ cây (vỏ sui) kéo thành sợi. Kỹ thuật lấy sợi và mắc thành cuộn sợi theo các quy trình sau:

Cho bông qua giá tách hạt  Cung bật bông ⇒ Xa quấn tơ  ⇒ Xa bắt chỉ ⇒ Xa đánh ống ⇒ Giá mắc sợi ⇒ Khung xỏ go 

Quá trình nhuộm vải

Màu nhuộm dành cho thổ cẩm có thể được tạo ra từ nhiều chất liệu thiên nhiên và phương pháp khác nhau:

Màu đen: ngâm lá chùm bầu với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm hoặc ngâm lá chàm

Màu nâu hoặc màu đỏ sẫm: lấy từ các loại vỏ cây. 

Màu xanh: nung vỏ ốc suối thật khô, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum; hoặc ngâm lá chàm

Màu đỏ: giã vỏ cây krung già ra, nấu lên.

Màu nâu đỏ: ngâm giấm vỏ cây sủi, đun sôi khoảng ba giờ và làm mát qua đêm, pha thêm phèn rồi ngâm sợi vải ở nhiệt độ 80 độ C

Màu vàng: nhuộm từ củ nghệ.

 
Sau khi nhuộm, sợi được phơi khô. Người thợ nhuộm sử dụng một chiếc bàn chải (kruamrai), chải dọc theo cuộn sợi để gỡ sạch các vụn màu, vỏ cây.

Đặc trưng màu sắc và hoa văn thổ cẩm của các dân tộc 

Khmer: Trong khi thổ cẩm của các dân tộc phía Bắc thường được ghép lại bằng những mảng vải màu rồi mới thêu hoa văn lên trên, thì sản phẩm của người Khmer lại tạo hoa văn trực tiếp ngay khi dệt sợi.

H’Mông: Những ô trang trí đường diềm hình chữ thập, chữ đinh, chữ công được chuyển biến một cách đa dạng, kết hợp với các ô hình quả trám hoặc tam giác có các đường viền hình gẫy khúc trong các thể bố cục khác.

Chăm: Màu sắc nền vải được ưa chuộng là đen hay đỏ, họa tiết trang trí phần lớn có dạng hình học.

Dao: Người Dao chuộng dùng màu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, bông trên ngực áo, cổ áo... Kỹ thuật thêu thoáng để lộ nền đen, nền chàm trong các họa tiết, có tác dụng làm giảm độ rực chói của các màu nguyên sắc, tạo cho chung độ chuyển sắc êm, trầm, nhuần nhụy.

H’re: Người Hre thích 2 màu đỏ và đen, hoa văn theo motiv hình học như hình thoi, hình quả trám, hình chữ nhật, hình vuông... được liên kết thành những ô nối tiếp nhau; hoa văn đường thẳng, đường lượn sóng... tạo nên hình dáng cách điệu con sông, con suối; hoặc hoa văn có hình giống các loài vật trong thiên nhiên.

Bana: Màu sắc chủ đạo là đen, đỏ, trắng. Họa tiết đối xứng phản ánh quan niệm về vũ trụ, âm dương, trời đất. Hoa văn thể hiện cảnh thiên nhiên, đường nét văn hóa và đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Ba Na.

LôLô:  Người Lô Lô sử dụng kỹ thuật chắp vải mầu có thêu với khuôn thức bố cục chặt chẽ, hòa sắc rực rỡ sáng, tươi của các mầu nguyên sắc được bố trí bên nhau làm rõ, làm tăng độ tương phản vốn có.

Tày: Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác.Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng người Tày gài mầu vào từng đoạn họa tiết, tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công.

Thái: Thổ cẩm của người Thái Tây Bắc thường sử dụng các màu trắng, đỏ, vàng, xanh lá cây, tím… tạo ấn tượng mạnh. Họa tiết thường đối xứng với nhau, phản ánh quan niệm về sự hòa hợp trường tồn của cuộc sống, quan niệm về vũ trụ, triết lý âm dương, đất trời cùng vạn vật…

Cơtu: Hoa văn dợn sóng tuy đơn giản nhưng nó rất tự nhiên, mộc mạc, những đường nét mờ ảo như mây như sóng. Tuỳ theo ý đồ trang trí, hoa văn dợn sóng được bố trí thành từng mảng, từng vệt, gọi là kluội; hoặc dàn trải, chạy đều trên toàn bộ tấm vải dệt, gọi là chrơ char.

Mường: Thổ cẩm của người Mường mang đậm màu sắc hoa văn của núi rừng và thiên nhiên…Hoa văn trên thổ cẩm Chiềng là những hình cách điệu từ hoa dẻ, hoa hồi, hạt gấc, quả trám… tuy không cầu kỳ nhưng gắn liền với tình yêu thiên nhiên và con người xứ Mường.Để nhuộm màu cho vải, bà con thường sử dụng nguyên liệu là các loại cây trong rừng. Màu đỏ là cây bang, màu vàng lấy từ cây nghệ, màu đen lấy từ cây chàm…

Nùng: không thêu thùa gì ngoài một số khoang vải có mầu khác với thân áo được đắp vào ống tay áo, vạt áo... Người Nùng cũng dệt thổ cẩm có chung phong cách nghệ thuật, đề tài như thổ cẩm Tày.Ở trung tâm trang trí, các ô vuông đã áp dụng lối bố cục đối xứng quay quanh điểm trung tâm tạo cho đồ án trang trí vẻ vui mắt.

Ngày nay thổ cẩm đã trở thành khái niệm dùng chung cho các loại hàng dệt có hoạ tiết trang trí rực rỡ được sản xuất không chỉ bằng tay mà còn bằng máy với số lượng áp đảo. Thổ cẩm hiện đại được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực từ thời trang đến đồ hoạ và cả trang trí nội thất… Và tất nhiên không thể không kể đến vai trò của thổ cẩm như một mặt hàng lưu niệm đậm chất dân tộc có ý nghĩa quan trọng trong du lịch và kinh tế Việt Nam. Bảo tồn và phát triển thổ cẩm không chỉ là đầu tư và giới thiệu sản phẩm truyền thống này ra thế giới, mà còn là tạo điều kiện cho ngành thổ cẩm  Việt Nam được giao lưu học hỏi với ngành thổ cẩm của các quốc gia khác, nhằm vươn tới những tiến bộ mới trong kỹ thuật và những tiềm năng mới trong sáng tạo. 

VnCharm

Nguồn

http://artmedia.edu.vn/tho-cam-viet-nam

Bình luận của bạn